Nguồn : https://unitedeschretiens.fr/semaine-de-priere-pour-unite-chretiens/
Chuyển ngữ: Sr. M-Michael Hoàng Phương Thúy, OA.
Lc 10, 25-37
Và này có người thông luật kia đứng lên hỏi Ðức Giêsu để thử Người rằng: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (26) Người đáp: “Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?” (27) Ông ấy thưa: “Ngươi hãy yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi và người thân cận như chính mình”. (28) Ðức Giêsu bảo ông ta: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống”.
(29) Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Ðức Giêsu rằng: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?” (30) Ðức Giêsu đáp: “Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. (31) Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. (32) Rồi cũng thế, một thầy Lêvi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. (33) Nhưng một người Samaria kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương. (34) Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. (35) Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: “Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiều, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác”. (36) Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?” (37) Người thông luật trả lời: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy”. Ðức Giêsu bảo ông ta: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”.
Kinh Thánh – Bản dịch Đại kết – TOB
Ngươi hãy yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi… và người thân cận như chính mình (Lc 10, 27)
Tài liệu của Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các Kitô hữu năm 2024 được chuẩn bị và biên soạn bởi nhóm Đại kết đến từ Burkina Faso do cộng đoàn sở tại Chemin Neuf (CCN)[1] linh hoạt. Chủ đề được chọn: «Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi… và người thân cận như chính mình» (Lc 10, 27). Các anh chị em đến từ Tổng Giáo phận Công giáo Ouagadougou, các Hội Thánh Tin Lành, các tổ chức Đại kết và CCN ở Burkina Faso đã hết sức quảng đại cộng tác với nhau trong việc chuẩn bị những lời cầu nguyện và suy niệm, ngang qua việc trải nghiệm công việc chung này như một hành trình hoán cải đại kết thực thụ.
Yêu mến Đức Chúa và người thân cận trong thời kỳ khủng hoảng an ninh
Burkina Faso nằm ở Tây Phi thuộc vùng Sahel, bao gồm các quốc gia láng giềng Mali và Niger. Quốc gia này có diện tích 174.000 km² với 21 triệu dân, thuộc gần 60 dân tộc khác nhau. Về mặt tôn giáo, khoảng 64% dân số là tín đồ Hồi giáo, 9% theo tôn giáo truyền thống Phi châu và 26% theo Thiên Chúa giáo (20% Công giáo, 6% Tin Lành). Ba nhóm tôn giáo này hiện diện ở khắp các vùng miền của đất nước và ở hầu hết trong mỗi gia đình.
Burkina Faso hiện đang trải qua một cuộc khủng hoảng an ninh trầm trọng, ảnh hưởng đến tất cả các cộng đoàn tín hữu. Sau một cuộc tấn công thánh chiến kinh hoàng diễn ra ở vành đai đất nước này năm 2016, tình hình an ninh ở Burkina Faso và kéo theo đó là tình trạng gắn kết xã hội của đất nước này đã xấu đi đáng kể. Đất nước này đã chứng kiến sự gia tăng các cuộc tấn công khủng bố, tình trạng phi luật pháp và nạn buôn người khiến hơn 3.000 nạn nhân thiệt mạng và gần 2 triệu dân phải di tản trong nước. Hàng ngàn trường học, trung tâm y tế và tòa thị chính phải đóng cửa, phần lớn các cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội và giao thông đã bị phá hủy. Các cuộc tấn công nhằm vào một số nhóm dân tộc nhất định đã làm trầm trọng thêm nguy cơ xung đột giữa các cộng đồng với nhau. Trong bối cảnh bất ổn nghiêm trọng, sự gắn kết xã hội, hòa bình và đoàn kết dân tộc đang bị công kích.
Các Giáo hội Kitô đã trở thành mục tiêu cụ thể của các cuộc tấn công vũ trang. Các linh mục, mục sư và giáo lý viên đã bị sát hại trong các giờ cử hành phụng tự, và số phận của tất cả những con tin bị bắt cóc vẫn chưa được xác nhận rõ ràng. Tại thời điểm này, hơn 22% lãnh thổ quốc gia không còn thuộc quyền kiểm soát của Nhà nước. Ở những vùng này, người Kitô hữu không còn có thể thực hành tôn giáo của mình một cách công khai nữa. Do khủng bố, phần lớn các Giáo hội Kitô ở miền Bắc, miền Đông và Tây Bắc đất nước đã bị ngăn cấm. Không còn bất kỳ việc cử hành phụng tự công khai nào của Kitô giáo ở nhiều khu vực này. Ở những nơi vẫn còn việc thực hành phụng tự với sự bảo vệ của cảnh sát, thường là ở các thành phố lớn, các giờ cử hành phụng tự phải rút ngắn vì lý do an ninh.
Phải thừa nhận rằng, bất chấp nỗ lực của cả Nhà nước lẫn các cộng đồng tôn giáo, đất nước này ngày càng trở nên bất ổn khi các nhóm cực đoan khủng bố trỗi dậy và không ngừng sinh sôi nảy nở. Nhưng bất chấp tất cả, tình liên đới giữa các Kitô hữu, các tín đồ Hồi giáo và những tín đồ theo các tôn giáo truyền thống được tăng cường. Các nhà lãnh đạo tôn giáo nỗ lực tìm giải pháp lâu dài cho hòa bình, gắn kết xã hội và hòa giải. Chẳng hạn, để đạt mục đích này, Ủy ban Đối thoại giữa các Kitô hữu và người Hồi giáo của Hội đồng Giám mục Công giáo Burkina Faso và Niger nỗ lực rất nhiều nhằm thúc đẩy đối thoại và cộng tác liên sắc tộc cũng như liên tôn.
Đáp lại lời kêu gọi của chính phủ cầu nguyện cho hòa bình, gắn kết xã hội và hòa giải, các cộng đoàn địa phương tiếp tục tổ chức cầu nguyện hàng ngày và ăn chay. Đã có thêm nhiều sáng kiến đến từ các Giáo hội Công giáo và Tin Lành khác nhau nhằm trợ giúp những người phải di tản. Các cuộc gặp gỡ suy tư và nâng cao nhận thức đã được tổ chức nhằm thúc đẩy sự hiểu biết sâu rộng hơn về tình hình cũng như giá trị của tình huynh đệ, đồng thời đưa ra các chiến lược nhằm khôi phục hòa bình lâu dài. Niềm hy vọng này được thể hiện trong câu ngạn ngữ truyền thống của người Mossis[2]: “Dù cuộc chiến thuộc kiểu loại nào, mang tính chất gì và kéo dài bao lâu thì thời khắc giao hòa sẽ đến”.
Lời mời gọi cùng cộng tác cho việc chuẩn bị các văn bản của Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các Kitô hữu năm 2024 cổ võ các Giáo hội khác nhau ở Burkina Faso bước đi, cầu nguyện và cùng làm việc trong tình yêu thương lẫn nhau qua những thời điểm khó khăn này đối với đất nước của họ. Tình yêu Đức Kitô hiệp nhất tất cả các Kitô hữu trở nên lớn mạnh hơn sự chia rẽ của họ, và các Kitô hữu ở Burkina Faso dấn thân đi theo con đường yêu mến Thiên Chúa và người thân cận của họ. Họ tin tưởng rằng tình yêu Thiên Chúa sẽ mạnh hơn tình trạng bạo lực hiện đang hoành hành và gây đau khổ cho đất nước của họ.
Trung tâm điểm của tình yêu trong đời sống Kitô hữu
Tình yêu được khắc sâu vào “ADN” của đức tin Kitô giáo. Thiên Chúa là Tình Yêu, và “tình yêu của Đức Kitô mang chúng ta đến với nhau trong sự hiệp nhất”[3]. Chúng ta khám phá căn tính chung của mình qua việc trải nghiệm tình yêu của Thiên Chúa (x. Ga 3, 16) và chúng ta vén mở căn tính ấy cho thế giới qua tình yêu chúng ta dành cho nhau (Ga 13, 35). Trong đoạn Tin Mừng được chọn cho Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các Kitô hữu năm 2024 (Lc 10, 25-37), Chúa Giêsu tái khẳng định giáo huấn truyền thống Do Thái giáo trong sách Đệ Nhị Luật 6, 5: “Ngươi hãy yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi” và trong sách Lêvi 19, 18b: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”.
Trong đoạn Tin Mừng này, một người thông luật đã hỏi ngay Chúa Giêsu: «Ai là người thân cận của tôi?» Câu hỏi nhằm biết được bổn phận tình yêu cần thực thi tới mức độ nào là chủ đề tranh luận giữa các nhà thông luật. Theo truyền thống, bổn phận này được coi là chỉ áp dụng đối với dân Israël và ngoại kiều. Sau này, dưới tác động của sự xâm lược của các thế lực ngoại bang, điều răn này được coi là không áp dụng đối với lực lượng chiếm đóng. Theo thời gian, khi Do Thái giáo bị phân mảnh, đôi khi nó được coi là chỉ áp dụng cho phe phái của chính mình. Vì vậy, câu hỏi mà nhà thông luật này hỏi Chúa Giêsu là một câu hỏi khiêu khích. Chúa Giêsu trả lời bằng một dụ ngôn cho thấy tình yêu vượt xa những mức độ mà người thông luật mong đợi.
Nhiều tác giả Kitô giáo của các thế kỷ đầu như Origen, Clêmentê thành Alexandria, Gioan Kim Khẩu và Augustinô đã nhìn thấy trong dụ ngôn này quỹ đạo của kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Họ nhìn thấy nơi con người từ Giêrusalem xuống hình ảnh của Ađam – nghĩa là của toàn thể nhân loại – từ thiên đàng xuống thế gian, với những nguy hiểm và chia rẽ, và nơi những kẻ cướp hình ảnh của các thế lực thù địch thế gian đang tấn công chúng ta. Họ nhìn thấy nơi chính Đức Kitô, Đấng chạnh lòng thương, đến trợ giúp người bị nạn sắp tắt thở, chữa lành vết thương và đưa người ấy đến nơi an toàn trong một quán trọ, nơi họ nhìn thấy hình ảnh của Giáo hội. Cuối cùng, họ thấy lời hứa trở lại của người Samaria là hình bóng về lời hứa sẽ trở lại của Chúa.
Các Kitô hữu được kêu gọi hành động như Đức Kitô qua việc yêu mến như người Samaria nhân hậu, chạnh lòng thương và thấu cảm với những người đang cần sự trợ giúp bất kể bản sắc tôn giáo, sắc tộc hay xã hội của họ. Điều khuyến khích chúng ta trợ giúp người khác không phải là bản sắc chung mà là tình yêu đối với “người thân cận” của chúng ta. Tuy nhiên, viễn cảnh yêu mến người thân cận mà Chúa Giêsu trình bày với chúng ta đã bị suy yếu trong thế giới ngày nay. Chiến tranh ở nhiều khu vực, sự mất cân bằng trong quan hệ quốc tế và sự bất bình đẳng gây ra bởi những điều chỉnh về cơ cấu do các cường quốc phương Tây hoặc các tác nhân bên ngoài khác áp đặt đã ngăn cản khả năng yêu thương như Đức Kitô của chúng ta. Chính qua việc học cách yêu thương nhau vượt lên trên những khác biệt mà các Kitô hữu có thể trở thành “những người thân cận”, giống như người Samaria trong Tin Mừng.
Con đường Đại kết
Chúa Giêsu đã cầu xin để tất cả các môn đệ của Người nên một (x. Ga 17,21), để các Kitô hữu không bao giờ đánh mất niềm hy vọng, không ngừng cầu nguyện và nỗ lực làm việc cho sự hiệp nhất. Các Kitô hữu hiệp nhất với nhau qua tình yêu Thiên Chúa trong Đức Kitô và qua kinh nghiệm về tình yêu Thiên Chúa dành cho họ. Họ cùng nhận ra kinh nghiệm đức tin này nơi người khác khi họ cùng nhau cầu nguyện, cử hành và phục vụ Thiên Chúa. Tuy nhiên, tất cả những điều này vẫn là một thách đố trong mối quan hệ giữa các nhánh và hệ phái, kể cả ở Burkina Faso. Việc thiếu hiểu biết và thiếu tin tưởng lẫn nhau giữa các Giáo hội có thể ngăn cản việc dấn thân trên con đường Đại kết. Một số người lo ngại rằng Đại kết có thể khiến họ đánh mất bản sắc tôn giáo và ngăn cản “sự phát triển” của Giáo hội mình. Nhưng sự cạnh tranh giữa các Giáo hội này trái ngược với lời cầu nguyện của Chúa Giêsu. Giống như thầy tư tế và thầy Lêvi trong đoạn Tin Mừng, các Kitô hữu thường bỏ lỡ cơ hội gắn kết với anh chị em mình do sợ hãi. Trong Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các Kitô hữu này, chúng ta cầu xin Thiên Chúa trợ giúp và chữa lành những vết thương của chúng ta, để chúng ta có thể tiến bước trên con đường Đại kết với niềm tin tưởng và hy vọng.
Sự hiệp nhất Kitô giáo nhằm phục vụ hòa bình và hòa giải
Bối cảnh cụ thể của Burkina Faso phản ánh nhu cầu đặt tình yêu vào trung tâm điểm của việc tìm kiếm hòa bình và hòa giải. Việc tìm kiếm này thường bị đe dọa bởi sự đánh mát các giá trị và cảm giác thuộc về nhân loại cũng như sự suy giảm sự quan tâm đến lợi ích chung, tính xác thực, tính toàn vẹn và lòng yêu nước. Việc tìm kiếm sự hòa giải cũng gây tổn hại đến sự nghèo nàn về tinh thần và việc theo đuổi những lợi ích dễ dàng. Đối mặt với những thực tế này, đòi hỏi làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa càng cấp bách hơn.
Chuyển từ chia rẽ sang hiệp nhất ở Burkina Faso
Các cộng đoàn Kitô hữu ở Burkina Faso nỗ lực sống lời mời gọi yêu thương ngang qua việc tiếp nhận lẫn nhau. Điều này thể hiện một cách cụ thể trong Tuần lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất các Kitô hữu. Các cộng đoàn Kitô hữu đã tận tụy cống hiến cả nhân lực lẫn tài chính để dịch bản Kinh Thánh Đại kết bằng tiếng Pháp (Translation ecuménique de la Bible – dịch bản Kinh Thánh Đại kết) sang các ngôn ngữ địa phương, từ đó góp phần vào việc đưa các Kitô hữu đến “quán trọ” Lời Chúa (x. Lc 10, 34). Ngoài ra, họ còn viếng thăm nhà thờ của nhau và cùng nhau tham dự các giờ cử hành phụng tự. Họ mang Đức Kitô đến với anh chị em mình qua việc chữa lành vết thương cho những ai rơi vào cảnh nghèo khó và đau khổ.
Nhưng như một câu ngạn ngữ Phi châu: “một cây không che hết cánh rừng”. Những ví dụ tích cực về Đại kết này không được làm cho chúng ta quên rằng vẫn còn nhiều trở ngại ngăn cản sự hiệp nhất. Cho dù có những nỗ lực của các Giáo hội để trở thành “người thân cận” của tất cả những ai tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi, các Giáo hội ở Burkina Faso vẫn không ngừng nỗ lực để yêu mến nhau thực sự như Đức Kitô đòi hỏi chúng ta. Đôi khi, các Giáo hội đối xử với nhau như người Samaria và dân Do Thái khi xưa đã làm, bị chia rẽ về văn hóa và về tín lý và duy trì những mối quan hệ không mấy thân tình hay mang tính thù địch. Sự thiếu liên đới dai dẳng này làm tình hình xấu đi, và họ nhận ra sự cần thiết phải hoán cải Đại kết để có thể đổ dầu và rượu chữa lành vết thương của nhau.
Các Giáo phụ thường nhìn thấy nơi quán trọ của dụ ngôn người Samari nhân hậu hình ảnh của Giáo hội. Giống như người Samaria nhân hậu đưa người bị thương đến quán trọ, Đức Kitô trao những người bị thương và những người thiếu thốn nhất trên thế giới cho các Giáo hội của chúng ta, để các Giáo hội có thể săn sóc những nỗi đau của họ và giúp họ chữa lành. Sứ mạng phục vụ thế giới này cũng là con đường hướng tới sự hiệp nhất, vốn là một món quà Thiên Chúa ban tặng cho dân Ngài.
TUẦN CẦU NGUYỆN
CHO SỰ HIỆP NHẤT CÁC KITÔ HỮU 2024
(18/1-25/1/2024)
SUY NIỆM KINH THÁNH VÀ CẦU NGUYỆN 8 NGÀY
Và này có người thông luật kia đứng lên hỏi Ðức Giêsu để thử Người rằng: «Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?» (Lc 10, 25)
Lạy Chúa, xin giúp chúng con có một đời sống quy hướng về Ngài
Đoạn Kinh Thánh bổ trợ
Rm 14, 8-9
Tv 103, 13-18
«Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?» Câu hỏi then chốt được một người thông luật hỏi Chúa Giêsu chất vấn hết thảy những ai tin vào Thiên Chúa. Điều này quyết định đến ý nghĩa đời sống của chúng ta ngay ở trần gian này cũng như nơi cuộc sống vĩnh hằng. Ở những chỗ khác trong Kinh Thánh, Chúa Giêsu cho chúng ta định nghĩa tối hậu về sự sống đời đời: «… là nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Ðấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô» (Ga 17, 3). Nhận biết Thiên Chúa nghĩa là khám phá và chu toàn thánh ý của Ngài trong đời sống chúng ta. Mỗi người chúng ta khao khát một cuộc sống trọn vẹn và chân thành, và đây cũng là điều Thiên Chúa mong muốn cho chúng ta (x. Ga 10,10). Thánh Irênê đã nói: «Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống và sống dồi dào».
Rất thường xuyên, những thực tại hiện sinh của cuộc sống, được đánh dấu bằng sự chia rẽ, ích kỷ và đau khổ, khiến chúng ta xa rời việc tìm kiếm Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã kinh qua sự nhiệm hiệp mật thiết với Chúa Cha, Đấng hằng ước mong đong đầy sự sống đời đời cho hết thảy con cái của Ngài. Chúa Giêsu là «đường» dẫn đưa chúng ta đến với Chúa Cha, là cùng đích của chúng ta.
Vì thế, việc tìm kiếm sự sống đời đời đưa chúng ta đến gần Chúa Giêsu hơn, đồng thời làm cho chúng ta gần nhau hơn và nhất là đưa chúng ta đến cận kề nhau hơn trên con đường hiệp nhất các Kitô hữu. Chúng ta hãy mở lòng ra với sự thân tình và sự cộng tác với các Kitô hữu thuộc tất cả các Giáo hội, ngang qua việc cầu nguyện để một ngày nào đó tất cả chúng ta có thể cùng nhau quy tụ quanh bàn tiệc của Chúa.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của sự sống, Chúa đã dựng nên chúng con để chúng con được sống và sống dồi dào, xin giúp chúng con nhận ra nơi anh chị em mình khao khát sự sống đời đời. Và khi chúng con quyết tâm bước theo chân Chúa Giêsu, xin giúp chúng con dẫn dắt người khác đến với Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa-chúng-con. Amen.
Người thông luật thưa : «Ngươi hãy yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi và người thân cận như chính mình.» (Lc 10, 27)
Lạy Chúa, xin giúp con yêu mến Chúa, yêu người thân cận và yêu chính bản thân con bằng cả con người con.
Đoạn Kinh Thánh bổ trợ
Đnl 10, 12-13
Tv 133
Câu trả lời mà người thông luật đưa ra cho Chúa Giêsu có vẻ đơn giản, được trích từ Mười Điều Răn nổi tiếng. Tuy nhiên, yêu mến Thiên Chúa và yêu người thân cận như chính mình có lẽ không dễ chút nào.
Lệnh truyền yêu mến của Thiên Chúa đòi hỏi sự dấn thân trọn vẹn và ngụ ý chúng ta phải hoàn toàn từ bỏ chính mình, dâng hiến trọn vẹn con tim và trí khôn của mình nhằm thực thi thánh ý của Thiên Chúa. Chúng ta có thể xin ơn để noi gương Đức Kitô, Đấng đã hoàn toàn tự hiến chính mình khi thưa: «Xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha» (Lc 22, 42). Ngài cũng thể hiện tình thương bao la của Ngài đối với hết thảy mọi người, kể cả kẻ thù của mình. Chúng ta không được chọn người thân cận của mình. Yêu mến người thân cận nghĩa là chú tâm đến nhu cầu của người ấy, chấp nhận những bất toàn của người ấy và khích lệ những niềm hy vọng và khát khao của người ấy. Chính thái độ này mà chúng ta cần phải có đối với những truyền thống riêng của chúng ta khi cùng bước đi trên con đường hiệp nhất các Kitô hữu.
Lời mời gọi yêu mến người thân cận «như chính mình» nhắc nhở chúng ta phải chấp nhận những gì chúng ta là, ý thức được cái nhìn đầy trắc ẩn của Thiên Chúa dành cho chúng ta, Đấng luôn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta; xem chúng ta là những thụ tạo yêu quý của Ngài; nhắc nhớ chúng ta phải tôn trọng chính mình; và bình an với chính bản thân mình. Tương tự như vậy, mỗi người chúng ta có thể xin ơn để yêu mến và chấp nhận Giáo hội hay cộng đoàn của chúng ta, với những khiếm khuyết, bất toàn, phó thác mọi sự trong tay Chúa Cha, Đấng đổi mới chúng ta qua tác động của Chúa Thánh Thần.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ơn hiểu biết Chúa một cách sâu sắc hơn, để chúng con có thể yêu mến Chúa bằng cả con người của chúng con. Đồng thời, xin ban cho chúng con tấm lòng trong sạch để yêu mến người thân cận như chính mình. Và xin ơn Thánh Thần Chúa làm cho chúng con nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi anh chị em chúng con, và ước mong chúng con yêu mến nhau bằng tình yêu vô điều kiện như Chúa dành cho chúng con. Nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa-chúng-con. Amen.
«Ai là người thân cận của tôi» (Lc 10, 29)
Lạy Chúa, xin mở lòng chúng con với những người chúng con không nhìn thấy
Đoạn Kinh Thánh bổ trợ
Rm 13, 8-10
Tv 119, 57-63
Người thông luật muốn chứng tỏ mình có lý qua việc tin rằng người thân cận mà ông được mời gọi yêu mến là người cùng tôn giáo và cùng dân tộc của ông. Đây là bản năng tự nhiên của con người. Nhìn chung, những người chúng ta mời đến nhà đều có cùng địa vị xã hội, cùng quan điểm sống và những giá trị giống như chúng ta. Bản năng của con người thúc đẩy chúng ta yêu quý những gì quen thuộc với mình hơn. Điều tương tự cũng áp dụng cho các cộng đoàn Giáo hội của chúng ta. Nhưng Chúa Giêsu dẫn dắt người thông luật và toàn bộ thính giả của ông đi sâu hơn vào truyền thống của họ, nhắc nhở họ về bổn phận tiếp nhận và yêu mến tất cả mọi người, bất kể tôn giáo, văn hóa và địa vị xã hội của họ.
Tin Mừng dạy chúng ta chẳng có gì đặc biệt khi yêu mến những người giống như chúng ta. Chúa Giêsu dẫn chúng ta tới một cái nhìn triệt để hơn về ý nghĩa của việc làm người. Dụ ngôn minh họa một cách hoàn toàn hữu hình những gì Đức Kitô mong đợi nơi chúng ta: ước mong chúng ta mở rộng trái tim và bước theo chân Người, qua việc yêu mến người khác như Người yêu chúng ta. Quả thật, Chúa Giêsu trả lời người thông luật bằng một câu hỏi khác cho thấy điều quan trọng không phải là biết «ai là người thân cận của tôi», mà là «ai đã tỏ ra mình là người thân cận của người đang cần trợ giúp đỡ này».
Thời đại bất ổn, bất an và sợ hãi của chúng ta phải đối mặt với một thực tế mà sự ngờ vực và sự không chắc chắn đánh dấu các mối quan hệ. Đây là thách đố của dụ ngôn ngày hôm nay: Tôi là người thân cận của ai?
Lạy Chúa là Đấng rất mực yêu thương, Đấng đã khắc ghi tình yêu vào tâm khảm chúng con,
xin ban cho chúng ta lòng can đảm để nhìn xa hơn chính mình, và nhận ra người thân cận của chúng con nơi những người khác biệt với chúng con, để chúng con có thể thực sự bước theo Đức Giêsu Kitô, người anh em và là người bạn của chúng con. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. (Lc 10, 31)
Ước mong chúng ta đừng bao giờ quay lưng lại với những người đang cần trợ giúp
Đoạn Kinh Thánh bổ trợ
Is 58, 6-9
Tv 34, 15-22
Có thể thầy tư tế và thầy Lêvi tránh qua bên kia mà đi có lý do tôn giáo chính đáng nên không đến trợ giúp người bị thương: có lẽ họ đang chuẩn bị thực hiện một số nghi lễ tôn giáo nào đó và có nguy cơ bị ô uế trong nghi lễ nếu người đàn ông đó đã chết. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, Chúa Giêsu chỉ trích các nhà lãnh đạo tôn giáo, những người đặt luật lệ tôn giáo lên trên nghĩa vụ bắt buộc phải luôn làm điều thiện.
Phần mở đầu của bản văn được chọn cho Tuần Cầu nguyện cho chúng ta thấy người thông luật muốn chứng tỏ mình có lý như thế nào. Thầy tư tế và thầy Lêvi trong dụ ngôn nhận thấy việc họ đã làm là chính đáng. Là Kitô hữu, chúng ta sẵn sàng phá vỡ quy định đến mức nào? Có thể xảy ra việc chúng ta bị cận thị, do những điều kiện đòi hỏi của Giáo hội và về văn hóa, ngăn cản chúng ta nhìn thấy những gì cuộc sống và chứng tá của các anh chị em chúng ta từ các truyền thống Kitô giáo khác biểu lộ. Qua việc mở rộng tầm nhìn để cảm thấy tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ nơi anh chị em của chúng ta từ các truyền thống Kitô giáo khác, chúng ta trở nên gần gũi hơn với họ và do đó có thể kết hợp sâu sắc hơn với họ.
Dụ ngôn này của Chúa Giêsu không chỉ kêu gọi chúng ta làm điều tốt; dụ ngôn cũng kêu gọi chúng ta mở rộng tầm nhìn của mình. Chúng ta có thể học điều gì là tốt và thánh thiện không chỉ từ những người có cùng nhãn quan tôn giáo và hệ phái với chúng ta, mà còn thường từ những người khác biệt với chúng ta. Người Samarita nhân hậu thường là người mà chúng ta không mong đợi.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, khi chúng con cùng bước đi với Người hướng tới sự hiệp nhất, xin đừng để mắt chúng con quay đi chỗ khác, nhưng xin hãy để mắt chúng con được rộng mở với thế giới. Khi chúng con bước đi trên đường đời, và xin giúp chúng con dừng lại để chăm sóc những người bị thương, và khi làm như vậy chúng con cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa trong họ, Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại (Lc 10, 34)
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhìn thấy những vết thương và tìm thấy niềm hy vọng
Đoạn Kinh Thánh bổ trợ
Ge 2, 23-27
Tv 104, 14-15, 27-30
Người Samaria nhân hậu làm những gì có thể trong khả năng của mình: ngài chữa lành bằng cách lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Ngài thậm chí còn làm được nhiều hơn thế bằng cách hứa trả chi phí chăm sóc sức khỏe cho người ấy. Khi chúng ta nhìn thế giới qua nhãn quan của người Samaria, mọi cảnh huống đều có thể là cơ hội để trợ giúp những người gặp khó khăn. Đây là cách tình yêu được tỏ lộ. Gương của người Samaria nhân hậu khích lệ chúng ta tự vấn bản thân mình phải đáp lại người thân cận như thế nào. Ngài trao cho người ấy rượu và dầu, trợ giúp người ấy và cho người ấy niềm hy vọng. Chúng ta có thể trao ban những gì để chúng ta cũng có thể tham gia vào việc chữa lành thế giới đang bị tổn thương của chúng ta?
Thế giới bị tổn thương này bị thống trị bởi sự bất an, bất ổn, sợ hãi, ngờ vực và chia rẽ. Đáng tiếc thay, những chia rẽ này cũng tồn tại giữa các Kitô hữu. Trong khi cử hành các bí tích hoặc các nghi thức chữa lành, hòa giải và an ủi khác, qua việc thường dùng dầu và rượu, chúng ta vẫn cố chấp chia rẽ làm tổn thương thân thể Đức Kitô. Bằng cách hàn gắn sự chia rẽ giữa các Kitô hữu, chúng ta góp phần hàn gắn sự chia rẽ giữa các dân tộc.
Lạy Chúa là nguồn mạch tình yêu, là Đấng ban mọi ân sủng và mọi sự tốt lành, xin cho chúng con nhìn thấy được nhu cầu của người thân cận của chúng con. Xin chỉ cho chúng con thấy những gì chúng con có thể làm để mang lại sự chữa lành. Xin biến đổi chúng con để chúng con có thể yêu mến tất cả anh chị em mình. Xin giúp chúng con vượt qua những trở ngại của sự chia rẽ, để chúng con có thể xây dựng một thế giới hòa bình vì lợi ích của hết thảy mọi người. Chúng con cảm tạ Chúa vì Chúa đã đổi mới công trình sáng tạo của Ngài và dẫn chúng con đến một tương lai tràn đầy hy vọng, Chúa hằng sống và hiển trị hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Amen.
Ngài đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc (Lc 10, 34)
Lạy Chúa, xin biến các Giáo hội của chúng con thành những “quán trọ” nơi tiếp nhận những người cần sự trợ giúp
Đoạn Kinh Thánh bổ trợ
St 18, 4-5
Tv 5, 11-12
Người bị rơi vào tay kẻ cướp đã được một người Samaria săn sóc. Vượt lên những thành kiến và tục lệ, người Samaria này nhìn thấy người đang gặp khó khăn và đưa người ấy đến quán trọ. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: «Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiều, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác» (Lc 10, 35).
Trong mọi xã hội loài người, lòng hiếu khách và tình liên đới là điều cần thiết, đòi hỏi chúng ta phải tiếp đón khách ngoại kiều, những người di cư và những người vô gia cư. Tuy nhiên, khi chúng ta sống trong bầu khí mất an ninh, nghi ngờ và bạo lực, chúng ta có xu hướng mất lòng tin vào người thân cận. Lòng hiếu khách là một chứng tá mạnh mẽ cho Tin Mừng, đặc biệt trong bối cảnh đa nguyên tôn giáo và đa văn hóa. Tiếp nhận “người khác” và được tiếp nhận lại cũng là trọng tâm của cuộc đối thoại Đại kết. Các Kitô hữu được kêu gọi dựng các quán trọ nơi người thân cận của chúng ta có thể tìm thấy Đức Kitô. Lòng hiếu khách như vậy là dấu chỉ tình yêu mà các Giáo hội của chúng ta dành cho nhau và cho tất cả mọi người.
Khi, với tư cách là các môn đệ của Đức Kitô, chúng ta vượt lên trên những truyền thống tôn giáo và hệ phái của mình và chọn thực hành lòng hiếu khách Đại kết, chúng ta không còn xa lạ với nhau nữa, nhưng trở nên gần gũi với nhau hơn.
Lạy Chúa là Cha rất mực yêu thương, nơi Chúa Giêsu, Cha đã cho chúng con thấy những gì là lòng hiếu khách thực thụ, qua việc săn sóc nhân loại mỏng giòn của chúng con.
Xin giúp chúng con trở thành một cộng đoàn tiếp nhận những người cảm thấy bị bỏ rơi và lạc lõng, qua việc dựng một mái ấm nơi tất cả mọi người đều được tiếp nhận.
Xin cho chúng con trở nên gần gũi nhau hơn khi chúng con trao ban cho thế giới tình yêu vô điều kiện của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần, đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Chúa Giêsu hỏi: «Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?» (Lc 10, 36)
Lạy Chúa, xin chỉ cho chúng con cách đáp lại người thân cận
Đoạn Kinh Thánh bổ trợ
Pl 2, 1-5
Tv 10, 17-18
Phần cuối dụ ngôn, Chúa Giêsu hỏi người thông luật: «trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?» Người thông luật trả lời: «Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy». Ông ta không nói «đó là người Samaria», và chúng ta có thể hình dung do sự thù địch giữa người Samaria và người Do Thái, nên ông ta khó chấp nhận câu trả lời như vậy. Rất thường xuyên, chúng ta khám phá nơi người thân cận của mình, nơi những người mà chúng ta ít mong đợi nhất, và ngay cả nơi những người mà chúng ta gặp khó khăn để xướng tên hay nhận ra xuất xứ của họ. Trong xã hội hiện nay của chúng ta, nơi nền chính trị đảng phái thường khiến những người có bản sắc tôn giáo khác nhau chống lại nhau, Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta qua dụ ngôn này hiểu được tầm quan trọng của ơn gọi vượt qua ranh giới và những bức tường ngăn cách.
Giống như người thông luật này, chúng ta được mời gọi suy gẫm về cách chúng ta thực hành đời sống của mình: vấn đề không chỉ là biết liệu chúng ta có làm điều tốt hay không, mà là liệu chúng ta có lơ là với việc thực thi lòng trắc ẩn hay không, như thầy tư tế và thầy Lêvi đã làm.
Lạy Chúa Chí Thánh, Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô đã đến cư ngụ ở giữa chúng con, để chỉ cho chúng con nẻo đường của lòng trắc ẩn. Xin giúp chúng con, nhờ Thánh Thần Chúa, noi gương Người, chú tâm đến nhu cầu của tất cả con cái Chúa và qua việc trở thành chứng tá Kitô giáo về tình yêu và lòng thương xót của Ngài trong sự hiệp nhất. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa-chúng-con. Amen.
Ðức Giêsu bảo ông ta: «Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy». (Lc 10, 37)
Lạy Chúa, xin làm cho tình huynh đệ của chúng con trở thành dấu chỉ của Triều đại Nước Thiên Chúa
Đoạn Kinh Thánh bổ trợ
Rm 12, 9-13
Tv 41, 1-2
Với những lời này: «Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy», Chúa Giêsu sai mỗi người chúng ta và mỗi Giáo hội của chúng ta ra đi để sống trọn vẹn giới răn yêu thương của Người. Được Chúa Thánh Thần soi dẫn, chúng ta được sai đi trở thành «những Chúa Kitô khác», đến với nhân loại đang đau khổ, lầm than qua lòng trắc ẩn và lòng thương xót. Giống như người Samaria nhân hậu trước người bị thương, chúng ta có thể chọn không khước từ những người khác biệt chúng ta, nhưng trái lại, chọn phát triển một nền văn hóa gần gũi và nhân hậu.
Lời mời gọi hãy đi và làm điều tương tự của Chúa Giêsu vang vọng thế nào trong cuộc đời tôi? Nó mang ý nghĩa gì đối với mối tương quan của tôi với các thành viên của các Giáo hội khác? Làm thế nào chúng ta có thể cùng nhau làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa trong đức ái? Với tư cách là sứ giả thay mặt Đức Kitô (x. 2Cr 5, 20), chúng ta được mời gọi hòa giải với Thiên Chúa và với nhau, để tình huynh đệ có thể bén rễ sâu và phát triển trong các Giáo hội của chúng ta cũng như trong các khu vực bị ảnh hưởng bởi các xung đột liên cộng đồng như Sahel.
Khi sự tin tưởng và sự thân mật gia tăng, chúng ta sẽ sẵn sàng bộc lộ những vết thương của mình hơn, kể cả những vết thương trong Giáo hội, để tình yêu của Đức Kitô có thể chạm đến và chữa lành chúng ta bằng tình yêu và sự quan tâm mà chúng ta dành cho nhau. Cùng nhau làm việc cho sự hiệp nhất các Kitô hữu giúp tái xây dựng các mối tương liên, để bạo lực phải nhường chỗ cho tình liên đới và hòa bình.
Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con tạ ơn Cha vì ơn Thánh Thần Chúa, Đấng trao ban sự sống, mở lòng chúng con với nhau, giải quyết các xung đột và củng cố mối liên kết hiệp thông của chúng con. Xin làm lớn lên trong chúng con tình yêu thương lẫn nhau và khao khát loan báo sứ điệp Tin Mừng một cách trung thành hơn, để thế giới có thể quy tụ và gắn kết với nhau trong sự hiệp nhất, và có thể tiếp đón Hoàng Tử Bình An. Nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa-chúng-con. Amen.
————————————————
[1] Để biết thêm thông tin về NCC, xem Phụ lục 3.
[2] Người Mossis là nhóm dân tộc chiếm đa số ở Burkina Faso.
[3] Để biết thêm thông tin về cách các Giáo hội ở Burkina Faso làm việc cùng nhau, xem phụ lục 2.